Philippines Khái quát quốc gia

+ Vị trí địa lý: Là quốc gia quần đảo với khoảng 7107 đảo, chạy dài từ Bắc xuống Nam giữa vĩ tuyến 4023 - 21025 Bắc và kinh tuyến 1160 - 1270 Đông. Bắc giáp biển Đài Loan. Nam ngăn cách với Malaysia bởi biển Sulu và Celebes. Đông là Thái Bình Dương. Tây ngăn cách với Việt Nam bởi Biển Đông (cách Việt Nam khoảng 1500 Km).
+ Đặc điểm tự nhiên, khí hậu: Toàn bộ bờ biển Phi-lip-pin dài 23.184 Km . 3/4 diện tích là rừng núi; đồng bằng thấp, nhỏ, hẹp và có nhiều thung lũng xen kẽ các sườn núi. Phi-lip-pin thuộc khu vực có nhiều động đất và núi lửa với khoảng 10 núi lửa đang trong thời kỳ hoạt động. Sông ngòi ngắn, chảy xiết. Phi-lip-pin thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường có bão lớn (trung bình 20 trận bão mỗi năm). Phi-lip-pin có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa: Mùa mưa-bão từ tháng 6 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5, trong đó thời tiết mát mẻ từ tháng 11 đến tháng 2 và nóng từ tháng 3 đến tháng 5. Nhiệt độ trung bình 25° C.
+ Dân tộc: Gồm 3 nhóm dân tộc chính là Indio theo Cơ đốc giáo, chiếm 3/4 dân số ; Các dân tộc miền núi chiếm khoảng 5% và nhóm người Moro theo Hồi giáo, chiếm khoảng 5%. Ngoài ra, số ngoại kiều (Hoa, Anh, Ấn, Mỹ, Tây Ban Nha, Arập...) chiếm 2%.
+ Tôn giáo: Phi-líp-pin là nước duy nhất ở Châu Á lấy Thiên chúa giáo làm quốc đạo. 85% dân số theo đạo Thiên chúa, 10% theo đạo Hồi, 5% theo đạo Tin lành và các đạo khác.
+ Ngôn ngữ: Tiếng Tagalog là ngôn ngữ quốc gia. Tuy nhiên, tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong cả nước và là ngôn ngữ chính thức trong cơ quan và trường học.
+ Tiền tệ: Đồng pê-sô (Peso)- tỷ giá hiện nay khoảng 55 pê sô/1USD
+ Ngày Quốc khánh: 12/6/1898
+ Ngày Mỹ trao trả độc lập: 4/7/1946

II. Tóm lược về Lịch sử, đất nước, con người
Thời kỳ Tây Ban Nha xâm lược và đô hộ (1521 - 1898): Năm 1521, Magellan (người Tây ban nha) đã tới quần đảo Phi-lip-pin. Năm 1543, Tây Ban Nha đặt tên cho quần đảo này là "the Philippines" (thần dân của Vua Tây Ban Nha Filip II) và áp đặt chế độ thực dân đến năm 1898. Ngày 12/6/1898, Tướng Emilio Aguinaldo, Tổng thống đầu tiên của Phi-lip-pin, tuyên bố khai sinh nước Cộng hoà Phi-lip-pin.
Thời kỳ Mỹ xâm lược và đô hộ (1898-1941): Ngày 10/12/1898, sau khi hạm đội Mỹ đánh tan hạm đội Tây Ban Nha ở Vịnh Manila, Tây Ban Nha phải ký Hoà ước nhượng toàn bộ Phi-líp-pin cho Mỹ. Tháng 2/1899, Mỹ tuyên chiến với Phi-líp-pin và đến 1913 áp đặt sự thống trị lên toàn bộ Phi-líp-pin. Tuy nhiên, trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân Phi-líp-pin, năm 1935, Mỹ phải tuyên bố cho người Phi-lip-pin hưởng tự trị trong một số lĩnh vực không quan trọng và hứa 10 năm sau sẽ trao trả độc lập.
Thời kỳ Nhật chiếm đóng (1942-1945): Tháng 12/1941, khi Nhật tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Phi-líp-pin, quân Mỹ ở đây đã kháng cự yếu ớt rồi rút chạy sang Úc. Năm 1943, Nhật thành lập chính phủ bù nhìn do Laurel đứng đầu. Chế độ này tồn tại đến năm 1945.
Thời kỳ Mỹ trao trả "độc lập" và thực hiện chính sách thực dân mới từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay: Năm 1945, Nhật thua trận, Mỹ đưa quân trở lại thực hiện chính sách thực dân mới ở Phi-líp-pin và ép chính quyền Phi-líp-pin ký nhiều Hiệp định bất bình đẳng để nắm tất cả quân sự, chính trị, kinh tế của đất nước này (Hiệp định thương mại 4/7/1946, Hiệp định tương trợ quân sự 21/3/1947, Hiệp ước phòng thủ chung 30/8/1951...). Ngày 4/7/1946, Mỹ trao trả độc lập cho Phi-lip-pin. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, do sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Phi-líp-pin, Mỹ phải điều chỉnh chiến lược và năm 1992 Mỹ rút quân khỏi căn cứ không quân Clark và căn cứ hải quân Subic ở Phi-lip-pin.